Đền Làng Rào được khởi dựng vào thời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6 (1624), thuộc Làng Rào, nay là xóm 7, xã Hưng Đạo. Ngôi Đền tọa lạc trên khuôn viên có tổng diện tích 859 m² , mặt bằng bố cục kiểu “Tiền nhất Hậu đinh”, ở một vị trí rộng rãi, thoáng đãng, nhìn về hướng Nam, phía trước có sông Hoàng Cần và cánh đồng lúa xanh tốt bốn mùa, 2 phía Đông, Bắc là khu dân cư xóm 7 đông đúc, trù mật. Đền thờ còn được bao bọc bởi hàng cây Lộc Vừng cổ thụ trầm mặc, quanh năm che bóng mát tạo nên một không gian vừa tĩnh lặng, thâm sâu, vừa uy nghiêm cổ kính. Vị thần chính được thờ tại Đền là thần Thổ địa có mỹ hiệu Đức thánh Nhà quan và phối thờ Hậu thần Lưu Đức Nhân.
Thờ thần Thổ Địa là một tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của cư dân nông nghiệp Phương Đông nói chung và Nghệ An nói riêng, bởi “đối với nhân dân làm nghề nông thì thần đất là những thần linh bảo vệ mùa màng, cai trị đất từ cõi linh thiêng và rất có quyền uy - hay nói cách khác là vị thần có nhiệm vụ đảm bảo sự an toàn của người dân trên vùng đất ấy”. Riêng ở đây, điều đặc biệt là thần Thổ địa đã được dân gian xây dựng thành một nhân vật gần gũi, quen thuộc, có lý lịch khá cụ thể và ly kỳ...
Theo tương truyền, Thần là một vị thầy thuốc tên Mỹ Hiệu là Bá Tướng, Thần Thông, sinh sống vào khoảng thế kỷ XV. Ngài từng có thời gian làm quan dưới triều nhà Lê nhưng không hứng thú với chốn quan trường nên Ngài đã từ bỏ và đi khắp nơi trong dân gian chữa bệnh cứu người, đặc biệt là những người nghèo mà không đòi hỏi tiền công. Vì vậy, Ngài được nhân dân nhiều nơi yêu mến và quý trọng.
Một lần, dân làng Rào có dịch bệnh, mụt nhọt mọc khắp người, các thầy lang trong vùng đã dùng hết cách mà bệnh vẫn không khỏi, lại có nguy cơ lây lan rộng. Lúc bấy giờ, nghe tiếng về Ngài, dân làng đã cử người đi mời Ngài về chữa bệnh giúp dân. Ngài vui vẻ nhận lời. Để nhanh chóng dập tắt bệnh dịch, Ngài làm việc không quản ngày đêm. Lúc người cuối cùng khỏi bệnh thì cũng là lúc dân làng không thấy Ngài đâu nữa. Một thời gian sau, dân làng nghe thấy tiếng đọc sách phát ra đêm đêm từ một cồn đất, đặc biệt là các đêm trăng sáng. Cho rằng, đây là nơi vị Thầy thuốc, ân nhân năm xưa của làng đã hóa, nên từ đó dân làng gọi cồn đất ấy là cồn Thầy Học.
Cồn Thầy Học nằm giữa một vùng lau sậy mênh mông, lại thêm sự huyền bí từ những âm thanh phát ra hàng đêm nên không ai dám đến gần. Duy chỉ có ông Lưu Đức Nhân, vốn có kiến thức về thuốc, vừa lấy làm lạ, lại tò mò, Ông đã một mình tìm đường đến cồn đất hoang và phát hiện các cây cỏ trên cồn chính là các vị thuốc được nhắc đến trong các lời đọc đêm đêm ấy. Ông làm theo hướng dẫn, thử chữa bệnh cho một số người trong làng và quả nhiên khỏi bệnh. Ông vui mừng chép tất cả những gì nghe được vào hai quyển sách vừa tiện sử dụng chữa bệnh và lưu truyền cho hậu thế.
Thấy vị thần linh thiêng, năm vĩnh tộ thứ 6( 1624) thời vua lê thần tông ( 1619-1643 và 1649-1662) Ông Lưu Đức Nhân đã kêu gọi dân làng lập một ngôi miếu nhỏ ngay trên cồn thầy học để hương khói và tôn thần làm vị thần thổ địa của làng. Tuy nhiên cồn thầy học có diện tích nhỏ bao quanh là đầm lầy lau sậy rất khó khăn cho việc hương khói ngày ngày, trong lúc đó người đến miếu ngày càng đông. Trước tình hình đó dân làng Rào đã bàn vói nhau tìm một địa điểm thích hợp để chuyển dời miếu. Làng đã mời thầy địa lý giỏi về giúp làng tìm vị trí mới. Sau khi xem xét địa hình địa thế, thầy địa lý đã chọn mảnh đất cách cồn thây học 300m ( tức là vị trí hiện nay). Mảnh đất có phong thủy tốt, tụ linh tụ thủy, có hình con rùa, vị trí xây dựng đền chính là đầu con rùa. Mặt khác liên quan đến nhân vật thờ thì vùng này có những hình dạng mang ý nghĩa tượng trưng gắn với nghề thuốc như: phía trước là dải đất rộng tượng trưng cho vữa thuốc, bên phải là dăm nhà đeo tượng trưng ccho dao cắt thuốc, bên trái là giếng nước tượng trưng cho bát thuốc. Vị trí này vừa hợp phong thủy, vừa có ý nghĩa với nhân vật thờ.
Theo lời kể của người dân, thời vua Khải Định, nghe tiếng đền Làng Rào linh thiêng, Vua đã cho làm một phép thử: để một vật đựng trong thùng kín, rồi sai Sứ giả và quan Tri phủ mang đến Đền, lệnh cho quan viên địa phương và nhân dân trong 3 ngày phải làm lễ cầu xin vị thần tại Đền cho biết đó là vật gì, nếu không đoán được, Đền sẽ bị dỡ bỏ.
Lúc bấy giờ, nhận lệnh Vua, quan viên và nhân dân làng Rào đều hết sức lo lắng. Ngày thứ nhất, dân làng cử cụ Hàn Em vào Đền làm lễ cầu nhưng không được. Ngày thứ hai, làng lại cử ông Cửu Hanh cũng không được. Đến ngày thứ ba, dân làng đã lo lắng thực sự, rồi cử Hương Êm và Hương Đổng ra cầu. Thật bất ngờ, vị thần đã giáng vào Hương Đổng và đọc 4 chữ “Mộc , thủy, thổ, hỏa”. Mọi người hồi hộp mở chiếc thùng đựng hiện vật do Vua gửi tới, đó chính là viên gạch và bốn từ đó để lý giải cho quá trình hình thành viên gạch. Sau khi trình báo lên Vua, Vua liền ban cho vị thần của đền Làng Rào một sắc phong. Tiếc rằng, sắc phong hiện nay không còn. Theo trí nhớ của các cụ cao niên và cũng được hậu duệ dòng họ Lưu Đức chép lại bằng chữ Hán thì thần được sắc phong là “Thổ Địa Đức thánh Nhà quan, Dực bảo Trung hưng Linh phù Chi thần”. Cùng với việc phong sắc, nhà Vua cũng ban thưởng cho những người có công đã chiếu được vật. Từ đó, tiếng lành về ngôi đền thiêng ngày một lan xa, thu hút không chỉ nhân dân trong vùng mà cả du khách thập phương đến tham quan, chiêm bái, đặc biệt là xin thuốc chữa bệnh.
Ông Lưu Đức Nhân tên tục gọi là ông Gồm, Ông sinh vào khoảng cuối thập niên 60 của thế kỷ XVI, thời gian đầu cả gia đình ông sống ở xứ vĩnh , nơi ông nội – Tiến sỹ Lưu Đức An từng làm việc khi làm tham nghị thừa tuyên sứ ty đạo Nghệ an dưới thời nhà Mạc ( 1527-1592).
Lúc bấy giờ đất nước xảy ra cảnh “ Nồi da nấu thịt” giữa các tập doàn phong kiến Lê – Trịnh và Mạc. Nghệ An là một trong những vùng bị ảnh hưởng lớn , làng xóm tiêu điều, dân cư bỏ đi phiêu tán khắp nơi. Trước tình cảnh đó, ông Lưu Đức Nhân cùng anh trai đã từ biệt cha mẹ đi lập nghiệp ở Thiên Lộc ( thuộc Hà Tĩnh ngày nay) Sinh sống được một thời gian hay tin cha qua đời, chỉ còn mẹ già nên ông trở về quê phụng dưỡng mẹ già. Đồng thời kêu gọi thêm bạn bè , những người nghèo không có đất sản xuất cùng về khai hoang.
Nguyên xưa vùng đất này tưng có người sinh sống nhưng vì chiến tranh nên dân làng bỏ đi phiêu tán khiến đất đai trở nên hoang vu, lạch chằng chịt, cỏ dại, năn lác mọc ngút ngàn. Trước hết Lưu Đức nhân cho người dựng lán trại để ở. Sau đó từng tốp được phân công bắt tay vào công việc phát quang năn lác lau sậy, be bờ, thau chua rửa mặn. Ông chi đạo lấp bớt các hói,rào hình thành nên một hệ thống kênh dẫn nước từ nguồn về nhằm phục vụ cho việc thau chua rửa mặn và tưới tiêu. Nhờ có sự phân công hợp lý nên công tác khai hoang được hoàn thành nhanh chóng và chẳng bao lâu công sức của mọi người đã được đền đáp bằng những cánh đồng lúa trĩu hạt, những nương khoai và hoa màu xanh tốt.
Bên cạnh việc phát triển sản xuất , ông Lưu đức nhân chú trọng việc chăn nuôi khuyên khích các gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm để cải thiện đời sống, đồng thời ông còn huy động sức người đắp đường làm cầu Eo để thuận tiện cho việc đi lại trong và ngoài làng. Khi cuộc sống đã dần ổn định dân làng đặt tên cho làng mình là làng Rào để ghi nhớ về mảnh đất rào đồng thời nhắc nhở với thế hệ mai sau về quá trình lao động vất vả khôi phục lại sức sống biến mảnh đất hoang tàn thành ngôi làng trù phú của cha ông.
Sau đó ông Lưu Đức Nhân cùng dân làng xin sáp nhập vào xã ước lệ. Làng rào là làng cuối cùng trong tổng số 4 làng của xã ước lệ. Nhưng khi sáp nhập trong chữ hán không có vần “R” nên làng rào phải viết thành làng Hào.
Ông Lưu đức nhân mất vào khoảng giữa thế kỷ XVII, thọ khoảng 80 tuổi, mộ táng ở cách đồng đội rụt. Tưởng nhớ đến công lao của ông, nhân dân làng Rào đã tôn ông làm hậu thần và phối thờ tại đền làng rào.
Đền Làng Rào từ xưa đến nay nổi tiếng là ngôi đền linh thiêng. Bởi vậy, đây không chỉ là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh cho nhân dân làng Rào và trong vùng mà còn là điểm đến thường xuyên của du khách thập phương, ngoài các ngày mồng một, rằm thì kỳ lễ được tổ chức lớn nhất là lễ cúng thần vào ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng năm và kỳ lễ này được lấy làm ngày Lễ hội của Đền thu hút hàng vạn lượt người đến tham dự và dâng hương.
Với truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn” nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn sắp tới, nhân dân và du khách thập phương tiếp tục gìn giữ và phát huy mạnh mẽ truyền thống tốt đẹp của ông cha, giáo dục con cháu xây dựng nếp sống mới, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp; đồng thời tiếp tục quan tâm, đóng góp sức người, sức của để góp phần bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các Di sản văn hóa trên địa bàn xã nhà nói chung và di tích đền Làng Rào nói riêng ngày một khang trang hơn, đẹp đẽ hơn, là điểm văn hóa gắn với du lịch góp phần phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa cho địa phương./.
Nguyễn Ngà (sưu tầm)